Vì Sao Sự Thật Không Phải Là Thứ Thay Đổi Suy Nghĩ Của Chúng Ta?

Khi một số người đã hình thành niềm tin trong tâm trí của họ, những niềm tin này có xu hướng gắn bó và được áp dụng cho nhiều chủ đề khác nhau. Ngay cả khi đối mặt với sự thật và các lập luận logic, họ vẫn kiên trì giữ vững niềm tin của mình. Trên thực tế, mạng xã hội đã được vũ khí hóa nhờ hành vi này, với một số công ty PR thúc đẩy các câu chuyện đề cao tính tuyên truyền hơn là sự thật.

Bài viết này sẽ khám phá những lý do tại sao sự thật không thay đổi suy nghĩ của chúng ta. Bằng cách nhận ra những thành kiến ​​​​của chính chúng ta và biết cách bộ não của chúng ta phản ứng với các kích thích, chúng ta có thể tránh rơi vào bẫy nhận thức và đánh giá thông tin một cách khách quan. 

Từ Chối Tin Vào Khoa Học

Vào năm 2015, những quan niệm sai lầm về vi rút Ebola đã dẫn đến một đại dịch Ebola khủng khiếp ở Hoa Kỳ. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ, Ebola chủ yếu lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với máu hoặc chất dịch cơ thể hoặc đồ vật bị nhiễm chất dịch cơ thể của người bị nhiễm bệnh (CDC, n.d.).

Tuy nhiên, người Mỹ đã phản ứng với virus theo những cách không khoa học. Chẳng hạn, một giáo viên ở Maine đã bị hội đồng nhà trường cho nghỉ phép vì cô ấy ở tại một khách sạn ở Dallas, Texas gần bệnh viện nơi hai y tá mắc bệnh Ebola. Docks và Belize từ chối cho lên tàu du lịch ở Mexico vì là một trong những hành khách là y tá làm việc tại bệnh viện Texas, mặc dù y tá này không tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân Ebola đầu tiên chết ở đó (Yuhas, 2014).

Một ví dụ khác là phong trào chống vắc-xin. Các bậc cha mẹ từ chối tiêm phòng cho con mình vì tin rằng nó gây ra bệnh tự kỷ cùng các rủi ro y tế khác. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu với mẫu lớn cho thấy các vắc-xin ngăn ngừa bệnh sởi, quai bị và rubella không gây ra bệnh tự kỷ. CDC cũng xác nhận điều này, nói rằng vắc-xin được theo dõi liên tục để đảm bảo an toàn và có tác dụng phụ nhỏ (CDC, n.d.).

Vào năm 2014, tâm lý chống vắc-xin đã được chứng minh là một mối nguy hiểm cho sức khỏe, khi Hoa Kỳ báo cáo 600 trường hợp mắc bệnh sởi, con số cao nhất trong số những số liệu mà CDC đã báo cáo trong 20 năm (CDC, n.d.). Các đợt bùng phát là do những người chưa được tiêm phòng mắc bệnh ở nước ngoài, sau đó lây lan sang các cộng đồng có tỷ lệ tiêm chủng tương đối thấp (Carroll, 2014). Với việc vắc-xin COVID-19 được tung ra thị trường, tâm lý chống vắc-xin lại một lần nữa gia tăng và có nguy cơ cản trở việc phân phối vắc-xin. Chẳng hạn, một cuộc khảo sát tại Anh và Hoa Kỳ về vắc xin cho thấy trong số những người được hỏi, những người không tiêm vắc xin là 6,4% và 2,4% sau khi tiếp xúc với thông tin sai lệch về vắc xin COVID-19 tiềm năng.

Ngoài ra, việc phủ nhận khoa học và phủ nhận sự thật có thể ảnh hưởng đến thành tích học tập của học sinh. Bởi các môn học ở trường tập trung vào những hiểu biết và áp dụng vào thực tế hơn là các lý thuyết sáo rỗng.

Vì Sao Sự Thật Không Thay Đổi Suy Nghĩ Của Chúng Ta?

Có một số hiện tượng mà các nhà nghiên cứu đã khám phá ra giúp giải thích tại sao chúng ta kiên định bám lấy niềm tin của mình. Chúng bao gồm những niềm tin có tính kiên trì, sự thiên kiến, ảo tưởng, né tránh sự phức tạp, lấp đầy khoảng trống thiếu hiểu biết bằng quan hệ nhân quả sai lầm và hiểu biết kém về rủi ro. 

Những Niềm Tin Kiên Trì

Một lời giải thích tại sao sự thật không thay đổi suy nghĩ của chúng ta là hiện tượng kiên trì niềm tin. Hiện tượng này đề cập đến xu hướng giữ vững niềm tin ban đầu của một người ngay cả sau khi họ nhận được thông tin mới mâu thuẫn hoặc không xác định cơ sở cho những niềm tin đó (Anderson, 2007). Anderson, Lepper và Ross (1980) đã thực hiện một nghiên cứu về niềm tin kiên trì, trong đó họ yêu cầu những người tham gia xem xét mối quan hệ giữa mức độ chấp nhận rủi ro với thành công trong công việc của lính cứu hỏa. Trong đó, có một nhóm (nhóm 1) được cung cấp các thông tin khiến họ tin rằng người lính cứu hỏa luôn thiết lập mối quan hệ tích cực giữa việc chấp nhận rủi ro và thành công trong nghề nghiệp. Nhóm 2 được cung cấp các thông tin giả để tạo ra mối tương quan nghịch giữa việc chấp nhận rủi ro và thành công với tư cách là một lính cứu hỏa. Nhóm 1 sau đó đã được nhận các thông tin cho thấy những thông tin ban đầu là hư cấu và đồng thời họ không biết liệu có mối tương quan tích cực hay tiêu cực giữa việc chấp nhận rủi ro và thành công trong vai trò lính cứu hỏa hay không (Anderson et al, 1980).

Kết quả cho thấy rằng nhóm số 1 đã từ bỏ quan điểm rằng có mối quan hệ tích cực hoặc tiêu cực giữa việc chấp nhận rủi ro và khả năng chữa cháy. Theo các nhà nghiên cứu, lý thuyết về sự khách quan đã hỗ trợ mạnh mẽ cho giả thuyết rằng ngay cả sau khi bằng chứng ban đầu được đưa ra, bác bỏ cơ sở cho niềm tin của họ, mọi người vẫn sẽ không thay đổi suy nghĩ về những niềm tin đó (Anderson et al , 1980).

Tham khảo: Ảnh hưởng của não đối với suy nghĩ, hành vi

Thiên Kiến Về Sự Xác Nhận

Thiên kiến xác nhận (confirmation bias) là xu hướng mà một người chấp nhận thông tin, quan điểm hoặc định kiến ​​​​của họ trong khi bỏ qua các thông tin mâu thuẫn. Điều này ngăn cản họ nhìn mọi thứ một cách khách quan (Heshmat, 2015).

Trong cuốn sách Bí ẩn của lý trí, Hugo Mercier và Daniel Sperber gọi điều này là “sự thiên vị của tôi”. Theo họ, tính hợp lý không phải là yếu tố khiến chúng ta đưa ra các quyết định dựa trên logic mà là cung cấp sự biện minh cho các quyết định mà một người đã đưa ra. Khả năng biện minh cho hành động cũng có một khía cạnh xã hội. Do đó, có động lực để chứng minh rằng niềm tin của một người là đúng bằng cách hạ thấp bằng chứng và lập luận ủng hộ niềm tin đối lập (James, 2018).

Mercier và Sperber lập luận thêm rằng nhận thức của con người được tạo thành từ các mô-đun, một trong số đó là mô-đun lý luận. Nhưng một lần nữa, mô-đun lý luận thiên về trực giác hơn là logic, mà theo họ, trực giác chỉ đóng một “vai trò phụ”. Thay vì hình thành các tiền đề chính, tiền đề phụ và kết luận, chúng ta chuyển sang các thông tin để biện minh cho lý do của mình, vốn thực sự chỉ là những sự hợp lý hóa sau khi thực tế xảy ra (James, 2018).

Ảo Tưởng Về Chiều Sâu Của Suy Luận

Một lý do khác giải thích tại sao niềm tin rất khó thay đổi là ảo tưởng về chiều sâu của suy luận (Illusion of Explanatory Depth). Theo khái niệm này, mọi người nghĩ rằng họ hiểu đủ rõ về một vấn đề để có thể đưa ra ý kiến ​​về vấn đề đó. Lần duy nhất họ nhận thức được sự thiếu hiểu biết của mình là khi họ được yêu cầu giải thích về điều đó và họ lúng túng.

Một nghiên cứu về ảo tưởng về chiều sâu của suy luận được thực hiện bởi nhà nghiên cứu người Anh Rebecca Lawson. Lawson đã yêu cầu một nhóm sinh viên tâm lý học từ Đại học Liverpool đánh giá các kiến ​​thức của họ về cách mà một chiếc xe đạp hoạt động và vẽ phác thảo lại nó. Ngoài ra còn có một nhiệm vụ trắc nghiệm yêu cầu họ xác định vị trí thông thường của khung, bàn đạp và xích (Lawson, 2006).

Nghiên cứu cho thấy hơn 40% những người tham gia không phải là chuyên gia về xe đạp mắc ít nhất một lỗi trong kiểu vẽ và bài tập trắc nghiệm. Kể cả khi hầu hết tất cả những người tham gia đã học cách đi xe đạp, và gần một nửa trong số họ sở hữu một chiếc xe đạp và mặc dù xe đạp là đồ vật thông thường hàng ngày thì họ vẫn mắc lỗi. Một nhận xét nổi bật từ một người tham gia là “Tôi chưa bao giờ biết mình biết ít về mọi thứ như thế nào cho đến khi tôi phải vẽ chúng.” Do đó, kết quả cho thấy rằng mọi người có một sự hiểu biết mơ hồ, không đầy đủ và thường không chính xác về cách các đồ vật trong các hoạt động hàng ngày (Lawson, 2006).

Một kiểu thiên kiến ​​nhận thức khác dẫn đến lối suy nghĩ sai lầm được gọi là Hiệu ứng Dunning-Kruger. Năm 1999, các nhà tâm lý học của Đại học Cornell David Dunning và Justin Kruger. Họ thực hiện các bài kiểm tra về logic, ngữ pháp và khiếu hài hước. Kết quả cho thấy những người đạt điểm phần trăm thấp nhất cũng có xu hướng đánh giá quá cao mức độ thể hiện của họ. Ví dụ: những người có điểm kiểm tra thực tế xếp ở phân vị thứ 12 (có nghĩa là họ đã kiểm tra tốt hơn 12% những người tham gia kiểm tra) ước tính rằng hiệu suất của họ sẽ đưa họ vào phân vị thứ 62 (Cherry, 2019). Những người gặp hiệu ứng Dunning-Kruger không chỉ thể hiện kém mà còn bỏ lỡ cơ hội phát triển vì thiếu sự tự nhận thức để đánh giá kỹ năng của mình một cách chính xác (Psychology Today, n.d.).

Né Tránh Sự Phức Tạp

Trong cuốn sách Denying to the Grave: Why We Ignore the Facts That Will Save Us, Sara và Jack Gorman chỉ ra rằng một trong những nguyên nhân của việc phủ nhận khoa học, sự thật là việc đưa ra quyết định dựa trên khoa học rất phức tạp và tốn nhiều công sức suy nghĩ. Những người từ chối tin vào sự thực là bởi họ phải vật lộn với những khái niệm khoa học để có thể hiểu được, do sự phức tạp, mọi người thường vịn vào những lời giải thích đơn giản mặc dù chúng không chính xác.

Tham khảo bài viết nghiên cứu về suy nghĩ của con người tại đây

Theo các nhà nghiên cứu hành vi Daniel Kahneman và Amos Tversky, những phần nguyên thủy hơn của não như hạch hạnh nhân không thể xử lý thông tin phức tạp. Mặc dù PFC có thể đưa ra các quyết định hợp lý có tính đến các hậu quả lâu dài, nhưng việc đưa ra các quyết định này có thể gây mệt mỏi cho phần não đó. Đây là lý do tại sao mọi người thấy dễ dàng đưa ra quyết định nhanh chóng hơn là suy nghĩ dài hạn và cảm thấy khó khăn về các vấn đề (Gorman & Gorman, 2016).

Hơn nữa, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng việc giữ vững niềm tin của một người sẽ kích hoạt nhân accumbens, trung tâm khoái cảm của não. Mặt khác, việc thay đổi niềm tin của một người sẽ kích thích thùy đảo, cùng khu vực được kích hoạt bởi sự lo lắng, sợ hãi hoặc ghê tởm (Gorman & Gorman, 2016). Nếu bạn đang thắc mắc tại sao niềm tin lại khó thay đổi đến vậy, thì đó là bởi vì chúng ta sẽ cảm thấy kém nếu không giữ vững lập trường của mình.

(Còn tiếp…) 

Nguồn: Research.com – Why Facts Don’t Change Our Minds and Beliefs are so Hard to Change?

Source link

Liên hệ với chúng tôi

All in one