Sự kết hợp giữa tình trạng thiếu hụt chuyên gia vốn tồn tại từ trước và sự gia tăng các yếu tố gây căng thẳng ở trường học đã dẫn đến nỗ lực lớn để đào tạo và tuyển dụng thêm chuyên gia sức khỏe tâm thần cho môi trường học đường.
Với tình trạng các vấn đề về sức khỏe tâm thần ngày càng gia tăng ở giới trẻ - theo chiều hướng ngày một nghiêm trọng hơn do đại dịch COVID - nhu cầu về các nhà tâm lý học học đường ngày càng tăng lên. Các nhà tâm lý học học đường ở Hoa Kỳ cung cấp dịch vụ tư vấn, đánh giá nhu cầu can thiệp của học sinh, ứng phó với khủng hoảng, triển khai các sáng kiến toàn trường nhằm giảm tình trạng bắt nạt và nhiều nhiệm vụ hơn thế nữa. Được đào tạo về tâm lý học, giáo dục và phát triển thanh thiếu niên nhi đồng, các chuyên gia này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định nhu cầu sức khỏe tâm thần ở các em học sinh, đặc biệt trong trường hợp các gia đình không nói tiếng Anh hoặc không có đủ nguồn lực để tự mình đánh giá.
Nhưng hiện nay, Hoa Kỳ đang phải đối mặt với việc thiếu hụt các nhà tâm lý học đường. Trong năm học 2021–2022, trung bình chỉ có một nhà tâm lý học cho mỗi 1127 học sinh từ mẫu giáo đến lớp 12 trên khắp cả nước (State Shortages Data Dashboard, National Association of School Psychologists (NASP), January 2023). Con số này ít hơn nhiều so với mục tiêu cứ 500 học sinh có một nhà tâm lý do NASP đặt ra. Đặc biệt, nhu cầu về các nhà tâm lý học song ngữ ở trường học ngày càng tăng cao do thành phần học sinh với văn hóa và nhu cầu hòa nhập ngày càng đa dạng. Sự thiếu hụt nghiêm trọng hơn ở các vùng nông thôn và một số vùng của đất nước, đặc biệt là các bang miền Nam.
Ở Mississippi, theo dữ liệu mới nhất hiện có, cứ 9292 học sinh thì có một nhà tâm lý học học đường. Ở New Mexico, tỷ lệ này là 19811 học sinh trên 1 nhà tâm lý. Ở vùng nông thôn Colorado, tỷ lệ này là 2128 trên 1, so với 942 trên 1 trên toàn tiểu bang. Chỉ có một số tiểu bang và vùng lãnh thổ đáp ứng hoặc tiến gần đến tỷ lệ được đề xuất, bao gồm Utah và Puerto Rico.
Tiến sĩ Andrea Clyne - chủ tịch NASP (Bethesda, Maryland) - cho biết: “Nước Mỹ đang chứng kiến tình trạng ngày càng nhiều học sinh gặp cảnh nghèo đói và chấn thương cũng như số lượng trẻ em mắc chứng rối loạn sức khỏe tâm thần ngày càng tăng. Các trường học, đáng tiếc, lại đang thiếu nguồn lực khi phải cung cấp các dịch vụ cần thiết cho nhóm dân cư có hoàn cảnh và nhu cầu đa dạng.”
Để giải quyết khoảng cách giữa cung và cầu, nhiều nỗ lực đang được tiến hành nhằm tăng số lượng chuyên gia sức khỏe tâm thần trong trường học. Trong số đó có sự hỗ trợ từ Bộ Giáo dục Hoa Kỳ. Vào năm 2023, Bộ đã trao 141 triệu USD cho 103 tiểu bang và các học khu. Những người được hưởng trợ cấp đang cố gắng đề cao tầm quan trọng của tâm lý học đường như một nghề nghiệp và loại bỏ các rào cản để tuyển dụng nhiều ứng viên hơn. Tiến sĩ Dorothy Espelage – nhà tâm lý học tư vấn - cho thấy đây là sự nỗ lực cao nhất trong 30 năm làm việc trong lĩnh vực này và chúng đang dần thúc đẩy những động lực tưởng như đã không còn từ lâu.
Tiến sĩ cũng là chuyên gia về ngăn chặn bạo lực học đường (Đại học Bắc Carolina), cho biết: “Các trường học đã xảy ra một cuộc khủng hoảng. Chúng ta ghi nhận sự thiếu hụt nguồn lực, nhưng bằng cách nào đó - vì tỷ lệ tự tử, vì các vụ xả súng ở trường học và các cuộc khủng hoảng khác - chúng ta cần một tuyên bố rằng: Chúng tôi sẽ chú ý đến sức khỏe tâm thần.”
Nhu cầu ngày càng tăng
Các chuyên gia cho biết, mặc dù tình trạng thiếu hụt các chuyên viên tâm lý học đường đã trở thành vấn đề trong nhiều thập kỷ, nhưng đại dịch COVID -19 đã khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn, một phần do đại dịch làm trầm trọng thêm các vấn đề về sức khỏe tâm thần vốn đã ngày một gia tăng ở giới trẻ. Nhận thức về chăm sóc sức khỏe tâm thân ngày càng tăng cũng đặt một lăng kính mới vào vấn đề này, từ đó xác định được rằng có nhiều trẻ em cần được hỗ trợ hơn.
Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), vào năm 2021, 42% học sinh trung học và 57% học sinh nữ cho biết các em cảm thấy buồn bã dai dẳng hoặc vô vọng và đây là tỷ lệ cao nhất trong 10 năm (Youth Risk Behavior Survey Data Summary and Trends Report [PDF, 9.88 MB]). Theo một nghiên cứu năm 2023, khoảng 20% thanh thiếu niên mắc chứng rối loạn trầm cảm nặng trong năm 2021, tuy nhiên chỉ có chưa đến một nửa số người cần điều trị nhận được các dịch vụ chăm sóc cần thiết (Flores, M. W., et al., JAMA Pediatrics, online first publication).
Ngày càng nhiều người quan ngại về vấn đề tự tử ở các em học sinh. Năm 2021, theo báo cáo của CDC, 10% học sinh trung học đã cố gắng tự tử và 22% đã cân nhắc nghiêm túc về việc đó. Một số nhóm trẻ em đặc biệt dễ bị ảnh hưởng bởi các vấn đề sức khỏe tâm thần và nguy cơ tự tử. Trong số các học sinh LGBTQ+, 69% cảm thấy buồn bã hoặc tuyệt vọng và 45% nghiêm túc cân nhắc việc tự tử. Đây là con số đáng kinh ngạc và đáng buồn về số trẻ em và thanh thiếu niên đang phải vật lộn với các vấn đề sức khỏe tâm thần của mình.
Đối với những trẻ nhỏ hơn, các nhà giáo dục cho biết họ nhận thấy các hành vi kích động, rối loạn điều tiết, bạo lực và gây rối nhiều hơn - và việc thiếu điều tiết cảm xúc có vẻ liên quan đến sự cách ly trong đại dịch. Tiến sĩ Stephanie Corcoran - chủ tịch Hiệp hội các nhà tâm lý học trường học Alabama và giám đốc chương trình tâm lý học đường tại Đại học Alabama ở Birmingham - cho biết học sinh mẫu giáo đang vắng mặt khỏi lớp học và rời khỏi trường học, và tình trạng đó cũng lan sang cả những học sinh lớn hơn. Theo một phân tích dữ liệu quốc gia, trong số học sinh trung học, tỷ lệ vắng mặt thường xuyên (được xác định là nghỉ học từ 10% số ngày học trở lên) đã tăng gần gấp đôi từ khoảng 15% lên 30% kể từ đại dịch. Các bậc cha mẹ nói rằng con cái họ dường như không đạt được các mốc phát triển quan trọng và chúng không muốn đến trường.
Nhu cầu ngày càng tăng đã gây căng thẳng cho các nhà tâm lý học học đường vốn đã phải làm việc quá sức – đặc biệt là những người có thể đang giám sát 10.000 học sinh trở lên. Espelage cho biết, một nhà tâm lý học cần phải có mặt trong mọi cuộc gặp để thảo luận về kế hoạch giáo dục cá nhân của bất kỳ đứa trẻ nào và mỗi cuộc gặp đó có thể kéo dài nửa ngày. Với lượng học sinh nhiều như vậy, điều đó khiến các chuyên gia có rất ít hoặc không còn thời gian để thực hiện các biện pháp can thiệp hành vi, giúp đỡ giáo viên, đưa ra lời khuyên hoặc các nhiệm vụ khác. Corcoran nói: “Điều cuối cùng các chuyên gia cần làm là dành toàn bộ thời gian của mình để đánh giá giáo dục đặc biệt. Các chuyên gia đang cố gắng giữ cho mình không chìm trong quá nhiều công việc.”
Rào cản công việc của các nhà tâm lý học đường
Với các vấn đề về hành vi ngày càng gia tăng, đôi khi bao gồm bạo lực hay tình trạng học tập khó khăn liên quan đến COVID -19, trường học có thể là môi trường căng thẳng cao độ và tỷ lệ kiệt sức ở các chuyên gia giáo dục trong mọi lĩnh vực đều cao. Trên khắp nước Mỹ ghi nhận sự thiếu hụt của các nhân viên phòng y tế trường học, nhân viên xã hội và cố vấn học tập. Theo một nghiên cứu năm 2018, tỷ lệ giáo viên rời bỏ nghề trong 5 năm đầu tiên là 44%. Trong một cuộc khảo sát năm 2022 với các thành viên của Liên đoàn Giáo viên Hoa Kỳ, 74% giáo viên cho biết họ không hài lòng với công việc của mình và 40% cho biết họ nghĩ rằng họ sẽ rời bỏ nghề này trong hai năm tới.
Các nhà tâm lý học đường cũng dễ bị tổn thương trước những căng thẳng khi làm việc trong trường học. Theo các nghiên cứu được thực hiện trước đại dịch, có tới 90% các nhà tâm lý học học đường cho biết đôi khi họ cảm thấy kiệt sức (Schilling, E. J., & Randolph, M., Contemporary School Psychology, Vol. 25, No. 4, 2021). Trong một cuộc khảo sát năm 2018 ở miền đông nam Hoa Kỳ, nơi tình trạng thiếu hụt chuyên viên tâm lý học đường trầm trọng nhất, khoảng 22% chuyên viên được khảo sát cho biết họ đang nghĩ đến việc rời bỏ vị trí hiện tại của họ (Schilling, E. J., et al. Contemporary School Psychology, Vol. 22, No. 3, 2018). Corcoran nói: “Có rất nhiều vấn đề ở trường học. Trẻ em có những nhu cầu rất lớn và không có đủ nhân sự để đáp ứng mọi nhu cầu, vì vậy chuyên gia có thể bắt đầu cảm thấy quá tải.”
Vấn đề chính trị cũng ảnh hưởng đến rào cản gia nhập ngành của các chuyên gia. Tại Florida, Thống đốc Ron DeSantis gần đây đã cấm học tập cảm xúc xã hội, trái ngược trực tiếp với nỗ lực của các nhà tâm lý học học đường. Espelage cho biết, việc dạy các chủ đề liên quan đến công bằng xã hội, tính đa dạng và các khái niệm khác không thể thiếu trong công việc của các nhà tâm lý học nhưng lại đang bị xem là bất hợp pháp tại đây. Các dự luật tương tự đã được đề xuất ở ít nhất tám bang.
Corcoran cho biết, ngay cả khi có những người có tiềm năng phù hợp với nghề này, tầm nhìn của nghề vẫn là vấn đề cản trở. Khi biết đến nghề nghiệp này, cô đang làm giáo viên giáo dục đặc biệt và nhiều đồng nghiệp của cô cũng có những câu chuyện tương tự. Cô nói: “Bạn sẽ không thấy nhiều bé gái và bé trai nói rằng chúng muốn trở thành nhà tâm lý học đường. Chúng tôi thường đùa nhau rằng nghề nghiệp này đến một cách ngẫu nhiên.”
Ngoài ra còn có những khó khăn từ con đường học tập đến con đường hành nghề. Espelage cho biết nhiều chương trình tiến sĩ sau đại học mất sáu năm hoặc hơn để hoàn thành và chỉ có một số ít nhà tâm lý học đường tốt nghiệp mỗi năm. Bà cho biết, việc tăng số lượng các nhà tâm lý nhanh hơn sẽ đòi hỏi phải tăng số lượng chương trình cấp bằng EdS thạc sĩ, thường yêu cầu 2 năm học và thực tập kéo dài một năm. Bà nói: “Chúng tôi không có thời gian để chờ đợi ai đó trong 5 đến 6 năm và sau đó chỉ đưa ra 5 sinh viên tốt nghiệp và sau đó chỉ có 3 người trong số họ thực sự có thể làm việc tại trường học. Sẽ phải mất nhiều thập kỷ để giải quyết khoảng cách này.”
Mở rộng đào tạo
Với sự hỗ trợ từ nguồn tài trợ của liên bang như một phần của Chương trình tài trợ dịch vụ sức khỏe tâm thần tại trường học của Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, nhiều nhà tâm lý học đường có thể sớm hành nghề và đáp ứng nhu cầu xã hội. Ví dụ, vào mùa thu vừa qua, UAB đã triển khai một chương trình kéo dài 2 năm để tái đào tạo nhóm gồm 12 nhà giáo dục trở thành nhà tâm lý học học đường, giúp họ đạt được EdS. Corcoran cho biết, thay vì mô hình lớp học trực tiếp và toàn thời gian truyền thống, chương trình UAB cung cấp các lựa chọn bán thời gian kết hợp với học trực tuyến. Tính linh hoạt này đã mở rộng khả năng tiếp cận cho những học viên ở nhiều khu vực, những học viên có gia đình và những học viên không thể hoặc không muốn rời bỏ công việc toàn thời gian để hoàn thành khóa đào tạo. Chương trình cũng hợp tác với các học khu để kết nối những người tham gia chương trình với nghiên cứu thực địa và thực tập.
Corcoran cho biết, UAB không yêu cầu sinh viên tốt nghiệp phải ở lại hệ thống trường học, nhưng vì những người tham gia chương trình này đã và đang làm việc tại trường học nên họ rất đam mê công việc của mình. Một trong những học sinh của các nhà tâm lý học đường nói rằng em ấy đang gặp phải những vấn đề như về hành vi, sự trốn tránh cùng những thứ tương tự nhưng không ai biết cách giải quyết vấn đề đó và các thầy cô giáo không được đào tạo để làm việc đó. Vì vậy, họ muốn giúp đỡ những đứa trẻ này. Bọn trẻ gặp khó khăn và các giáo viên cũng rơi vào tình trạng tương tự vì họ không biết phải làm gì.
Những nơi nhận trợ cấp khác bao gồm Đại học Wisconsin (Lacrosse), Đại học Bắc Carolina (Greensboro), Đại học Indiana và Trường Cao đẳng Sư phạm Morgridge của Đại học Denver - đang sử dụng 3,82 triệu đô la tiền trợ cấp liên bang - để tuyển dụng và đào tạo 32 nhà tâm lý học học đường trong 5 năm tới, tập trung vào việc bố trí họ vào các cộng đồng nông thôn của Colorado - nơi tỷ lệ các nhà tâm lý học học đường thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của bang. SUNY Oswego đang sử dụng khoản trợ cấp 5 năm từ Bộ Giáo dục Hoa Kỳ để cung cấp học phí miễn phí, thực tập có lương và đảm bảo vị trí sau khi tốt nghiệp tại Học khu Thành phố Syracuse.
Tiến sĩ Stephanie Schmitz - nhà tâm lý học đường Đại học Bắc Iowa (Cedar Falls) - cho biết: “Một trong những chiến lược hứa hẹn nhất để nâng cao trình độ các nhà tâm lý học đường ở những nơi cần họ nhất là bằng các chương trình Grow Your Own - nhằm tuyển dụng những học viên ngay tại nơi họ đã sống và làm việc. Cô và các đồng nghiệp đã sử dụng nguồn tài trợ của liên bang để tuyển dụng những người có bằng thạc sĩ làm việc trong lĩnh vực giáo dục trên toàn tiểu bang để chuyên môn hóa, giúp họ trở thành nhà tâm lý học đường.
Chương trình EdS của trường đại học hiện đang làm việc với nhóm thứ ba gồm năm sinh viên và đã thực hiện các điều chỉnh dựa trên kinh nghiệm. Sinh viên trong chương trình Grow Your Own tham gia các lớp học bán thời gian và chủ yếu trực tuyến trong 2,5 năm, thay vì 2 năm như chương trình được thiết kế ban đầu, sau đó là thực tập kéo dài 1 năm. Họ cam kết làm việc ít nhất 3 năm tại các trường học trong khu vực hiện tại sau khi tốt nghiệp.
Schmitz và các đồng nghiệp đã viết trong một báo cáo năm 2021 rằng một số nghiên cứu đã xem xét cách tốt nhất để giữ chân các nhà tâm lý học ở trường học và các chương trình Grow Your Own đã mang đến cơ hội giải quyết nhiều trở ngại. Cô nói: “Trong tiểu bang của chúng tôi, tôi cảm thấy chắc chắn với những động lực đang được xây dựng cho việc này. Có rất nhiều sự quan tâm.”
Clyne cho biết, ngoài những nỗ lực tuyển dụng như thế này, NASP đang nỗ lực nâng cao sự hài lòng trong công việc thông qua việc tập trung vào các sáng kiến cải thiện điều kiện làm việc và phát triển nghề nghiệp. Họ đang ủng hộ việc có thêm các khoản đầu tư của liên bang, cũng như các chương trình thực tập được trả lương cho sinh viên sau đại học, trợ cấp và các khuyến khích tài chính khác cho các nhà tâm lý học ở trường, những người kiếm được và duy trì bằng cấp của họ. Tổ chức này cũng cung cấp hướng dẫn cho các khu học chánh về cách tạo điều kiện làm việc giúp các nhà tâm lý học đường thực hiện công việc của họ cũng như nỗ lực thiết lập sự tương hỗ về bằng cấp để các nhà tâm lý học đường có thể làm việc xuyên bang.
Clyne cho biết, khi có nhiều nhà tâm lý học đường hơn tham gia vào nghề và ở lại đó, công việc sẽ trở nên hấp dẫn hơn đối với mọi người - và nhiều học sinh có thể phát triển hơn.
Bài viết được dịch từ nguồn: Psychologists are innovating to tackle substance use by building new alliances in treatment efforts, một bài viết trong series Trends in 2024 của APA.
-----------------------------
Viện Tâm lý Việt - Pháp
Trụ sở chính & Trung tâm trị liệu tại Hà Nội: Số 54 Trần Quốc Vượng, P. Dịch Vọng Hậu, Q. Cầu Giấy, TP. Hà Nội
Trung tâm trị liệu tại TP.HCM: Toà Landmark Plus, Vinhomes Central Park, 720A Điện Biên Phủ, P. 22, Q. Bình Thạnh, TP. HCM
Hotline: 0977.729.396 (Zalo, 24/7)
Email: info@tamlyvietphap.vn