Cuộc khủng hoảng COVID-19 đã dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng trong các mô hình làm việc bao gồm các hình thức làm việc từ xa mới, làm việc linh hoạt, giãn cách xã hội tại nơi làm việc và làm việc theo ca. Một số nhân viên đã bị sa thải sau một khoảng thời gian, một số khác lại không chắc chắn về triển vọng công việc của họ.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phản ánh về tình trạng làm việc khi không đủ khỏe mạnh (Presenteeism) tại nơi làm việc. Vấn đề này xuất hiện khi mọi người làm việc với sức khỏe dưới mức tối ưu. Cả hai tình trạng làm việc khi không đủ khỏe mạnh và vắng mặt đều có tác động lớn tới năng suất tại nơi làm việc, nhưng cho đến nay, làm việc khi không đủ khỏe mạnh là vấn đề nghiêm trọng nhất với nghiên cứu cho thấy chi phí thiệt hại của tình trạng làm việc khi không đủ khỏe mạnh cao hơn nhiều so với việc vắng mặt. Mặc dù có rất ít sự thay đổi trong số trường hợp vắng mặt vì bệnh tật do cuộc khủng hoảng COVID-19, nhưng có ít thông tin về tình trạng làm việc khi không đủ khỏe mạnh hơn. Nhưng điều quan trọng là người sử dụng lao động phải xác định và ứng phó với người lao động khi không đủ khỏe mạnh, vì sức khỏe của nhân viên cũng như của tổ chức.
Nguyên Nhân Của Tình Trạng Làm Việc Khi Không Đủ Khỏe Mạnh

Nghiên cứu của RAND Europe cho thấy nguyên nhân chủ yếu là do căng thẳng, sức khỏe tâm thần kém, thiếu ngủ và có vấn đề tài chính. Những điều kiện này lý giải cho hơn 50% các trường hợp trước đại dịch. Các cuộc khảo sát về nơi làm việc do RAND Europe thực hiện trong khuôn khổ cuộc thi “Nơi làm việc lành mạnh nhất nước Anh” cho thấy rằng 50% người lao động có tình trạng liên quan đến căng thẳng, 50% có mối bận tâm về tài chính, trong đó có 20% quan tâm nghiêm trọng - tất cả đều góp phần vào tình trạng làm việc khi không đủ khỏe mạnh. Nhìn chung, các cuộc khảo sát cho thấy rằng, vào năm 2019, mỗi công nhân bị mất hơn 30 ngày làm việc mỗi năm do tình trạng này.
Tình Trạng Làm Việc Khi Không Đủ Khỏe Mạnh Trong Đại Dịch
Để hiểu được mức độ nghiêm trọng của tình trạng làm việc khi không đủ khỏe mạnh trong cuộc khủng hoảng hiện nay, bạn cần phải hiểu được các nhân tố chính dẫn đến tình trạng này đã phát triển mạnh mẽ như thế nào trong đại dịch.
Ví dụ, về vấn đề sức khỏe tâm thần kém, các cuộc khảo sát gần đây với hơn 3.500 người trưởng thành do Văn phòng Thống kê Quốc gia thực hiện đã kết luận rằng có 1/5 người đã bị trầm cảm kể từ COVID-19, tăng gấp đôi so so với con số 1/10 trước đây. Cứ 8 người trưởng thành thì có một người phát triển các triệu chứng trầm cảm từ mức độ trung bình đến nặng trong thời kỳ đại dịch, và 6,2% số người vẫn đang trải qua chúng.
Nghiên cứu của CIPD xác nhận xu hướng này; ví dụ, Chỉ số Công việc Tốt cho thấy 43% nhân viên nói rằng sức khỏe tâm thần nói chung của họ đã trở nên tồi tệ hơn kể từ khi dịch bệnh bùng phát, con số này đã tăng lên 52% đối với những người có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Hơn nữa, 39% cho biết khả năng tài chính của họ đã giảm sút kể từ đầu cuộc khủng hoảng. Khoảng 30% chia sẻ rằng khả năng làm việc của họ bị ảnh hưởng bởi những trách nhiệm chăm sóc người thân bị bệnh. Một cuộc khảo sát trên 2.700 người lớn của Hội đồng Giấc ngủ và các đối tác cho thấy hơn 40% số người được hỏi cho rằng họ khó rơi vào giấc ngủ hơn.
Những phát hiện này cho thấy những nguyên nhân chính gây ra tình trạng làm việc khi không đủ khỏe mạnh như suy giảm sức khỏe tâm thần, tài chính và giấc ngủ có thể có ảnh hưởng lớn hơn tới xu hướng không lành mạnh này kể từ COVID-19. Chúng đi kèm với nhiều yếu tố khác có thể dẫn đến việc mọi người cảm thấy cần phải đi làm kể cả khi bị ốm. Chúng bao gồm nỗi sợ hãi về bảo mật công việc, sự cô lập xã hội và 'tình trạng làm việc với kỹ thuật số khi không đủ khỏe mạnh' và nhiều người hiện đang làm việc tại nhà gặp khó khăn để xác định ranh giới rõ ràng giữa công việc và cuộc sống ở nhà.
Với những phát hiện này, tình trạng làm việc khi không đủ khỏe mạnh sẽ trở thành một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp.
Giải Quyết Các Thách Thức Về Tình Trạng Làm Việc Khi Không Đủ Khoẻ Mạnh

Câu hỏi quan trọng là làm thế nào nhà tuyển dụng có thể giải quyết được thách thức này. Ưu tiên đầu tiên là không bỏ qua vấn đề. Báo cáo khảo sát lần thứ 20 của CIPD về sức khỏe và hạnh phúc cho thấy rằng, trước đại dịch, gần chín phần mười (89%) nhân viên đã quan sát thấy tình trạng làm việc khi không đủ khoẻ mạnh ở những người thuộc tổ chức của họ trong 12 tháng qua. Chỉ một phần ba đã thực hiện các bước để giải quyết cách làm việc không lành mạnh này, do đó, nhiều nhà tuyển dụng cần nhận ra vấn đề và hành động.
Ưu tiên thứ hai là hiểu cách tình trạng này hoạt động. Ở đây chúng tôi có một số tin tốt. Người sử dụng lao động đã đạt được những bước tiến quan trọng trong việc cải thiện nhiều nhân tố quan trọng của tình trạng làm việc khi không đủ khoẻ mạnh như sức khỏe tâm thần, tài chính và giấc ngủ kém. Có cơ sở bằng chứng nổi bật do Bộ Y tế Công cộng Anh tổng hợp xung quanh các biện pháp can thiệp tại nơi làm việc nhằm cải thiện một số vấn đề này. Chúng bao gồm các ứng dụng kỹ thuật số, chương trình phong cách sống, thiết bị đeo và đào tạo quản lý.
Thay Đổi Tổ Chức
Điều quan trọng là phải tạo ra một nền văn hóa lành mạnh để khuyến khích các hành vi tốt. Điều này sẽ đòi hỏi một cách tiếp cận đối với sức khỏe, và khả năng cao nhất là cần có phúc lợi tập trung vào các vấn đề cốt lõi về sức khỏe tại nơi làm việc. Điều này cần sự chỉ đạo từ cấp cao nhất của tổ chức. Nó cũng phải liên quan đến việc giao tiếp rõ ràng về các chính sách; đánh giá rủi ro như một phần của phương pháp tiếp cận dựa trên phòng ngừa; một loạt các can thiệp dựa trên bằng chứng; giám sát kết quả; và báo cáo.
Trong nhiều trường hợp, văn phòng không còn là nơi làm việc (duy nhất) và người sử dụng lao động có thể cần tìm những cách mới để gắn kết với nhân viên. Các doanh nghiệp lớn có nguồn lực dồi dào hơn thường làm tốt trong việc thúc đẩy sự tham gia của những người có nguy cơ cao nhất. Vì vậy, cần phải suy nghĩ để đảm bảo các chương trình phù hợp với mục đích cho hoàn cảnh mới và cách thức hỗ trợ người sử dụng lao động vừa và nhỏ nói riêng.
Những người quản lý trực tiếp luôn là quan trọng nhất trong việc chăm sóc sức khỏe và hạnh phúc của nhân viên. Những cách làm việc mới có thể khiến tình trạng làm việc khi không đủ khoẻ mạnh khó phát hiện và khó giải quyết hơn. Mối quan hệ giữa nhân viên và quản lý trực tiếp càng trở nên quan trọng hơn. Chất lượng của việc quản lý nhân sự sẽ giúp tạo ra sự khác biệt đáng kể trong việc giảm thiểu tình trạng làm việc khi không đủ khoẻ mạnh.
Cuối cùng, nhu cầu cân bằng giữa việc tăng cường tính linh hoạt và quyền tự chủ với việc quản lý thời gian, bảo đảm công việc và tham gia tích cực là một nhu cầu vô cùng lớn. Làm việc linh hoạt không có nghĩa là các nhân viên phải túc trực 24/7.
Cuộc khủng hoảng do đại dịch hiện nay đặt ra nhiều thách thức cho các doanh nghiệp. Thách thức của tình trạng làm việc khi không đủ khoẻ mạnh là có thật và đang ngày càng gia tăng, do đó, các nỗ lực của doanh nghiệp nên bao gồm cả việc giải quyết xu hướng không lành mạnh này. Cuối cùng, điều này sẽ thúc đẩy năng suất. Không chỉ có lợi cho sức khỏe của nhân viên cho doanh nghiệp mà còn cho xã hội nói chung.
Nguồn: Managing the challenge of workforce presenteeism in the COVID-19 crisis - CIPD