Khái Niệm Về Bản Thân Là Gì?
Khái niệm về bản thân (Self-Concept) là một ý tưởng bao quát mà chúng ta có về con người của mình - về các mặt như thể chất, tình cảm, xã hội, tinh thần và về bất kỳ mặt nào khác tạo nên con người chúng ta (Neill, 2005). Khi lớn lên, mỗi người đều dần hình thành sự tự nhận thức về bản thân và điều chỉnh chúng dựa trên những kiến thức và kinh nghiệm có được về chính bản thân.
Một số khái niệm về bản thân mà bạn có thể tham khảo như:
Nhà nghiên cứu Roy Baumeister (1999): “Khái niệm về bản thân gồm những thuộc tính của người đó và gồm cả việc bản thân họ là ai và là cái gì.”
Rosenberg (1979) đã định nghĩa: “…tổng thể những suy nghĩ và cảm xúc của một cá nhân có liên quan đến bản thân người đó được thể hiện như một đối tượng.”
Đặc Điểm & Phạm Vi Của Khái Niệm Bản Thân
Đặc Điểm
Như một đánh giá ngắn gọn, khái niệm về bản thân là quan điểm chúng ta có về chính con người của chúng ta. Mỗi người đều có một quan niệm riêng về bản thân và nó khác với quan niệm của người khác về chúng ta. Tuy nhiên, có một số đặc điểm chung mà tất cả các khái niệm về bản thân của chúng ta đều có, ví dụ như:
Là duy nhất với mỗi người
Có một phạm vi thay đổi, từ tích cực đến tiêu cực.
Gắn với cảm xúc, trí tuệ và chức năng.
Thay đổi theo bối cảnh.
Thay đổi theo thời gian.
Có tầm ảnh hưởng đối với cuộc sống mỗi cá nhân (Delmar Learning, nd).
Phạm Vi Của Khái Niệm Về Bản Thân
Các phạm vi khác nhau có thể hình thành các loại khái niệm bản thân khác nhau, ví dụ các khía cạnh tạo ra “năng lực bản thân trong học tập” sẽ không trùng lặp nhiều với “năng lực bản thân về mặt xã hội”.
Các phạm vi này bao gồm: lòng tự trọng, giá trị của bản thân, hình ảnh của bản thân (về mặt vật lý), lý tưởng, bản sắc hoặc vai trò (xã hội), đặc điểm và phẩm chất cá nhân (Elliot, 1984; Gecas, 1982).
Tham khảo: Schema trong tâm lý học
Các Giai Đoạn Phát Triển Của Khái Niệm Bản Thân
Sự Hình Thành Khái Niệm Bản Thân Trong Giai Đoạn Đầu Của Thời Thơ Ấu (Early Childhood)
Giai đoạn 1: 0 đến 2 tuổi
Trẻ cần những mối quan hệ nhất quán, yêu thương để phát triển ý thức tích cực về bản thân.
Trẻ sơ sinh hình thành sở thích phù hợp với ý thức bẩm sinh về bản thân.
Trẻ mới tập đi cảm thấy an toàn cùng những giới hạn phù hợp.
Khi được hai tuổi, kỹ năng ngôn ngữ phát triển và những đứa trẻ mới biết đi sẽ có ý thức về cái “tôi”.
Giai đoạn 2: 3 đến 4 tuổi
Trẻ 3-4 tuổi bắt đầu thấy mình là những cá thể riêng biệt và độc nhất.
Hình ảnh bản thân của các bé có xu hướng mô tả hơn là quy định hoặc phán xét.
Trẻ độc lập hơn và tò mò về những gì chúng có thể làm.
Giai đoạn 3: 5 đến 6 tuổi
Các bé đang chuyển từ giai đoạn “tôi” sang giai đoạn “chúng tôi”, nơi các bé nhận thức rõ hơn về nhu cầu và lợi ích của nhóm lớn hơn.
Trẻ có thể truyền đạt mong muốn, các nhu cầu và cảm xúc thông qua lời nói.
Trẻ năm và sáu tuổi thậm chí có thể sử dụng ngôn ngữ cao cấp hơn để giúp xác định bản thân trong bối cảnh của nhóm (Miller, Church, & Poole, nd).
Khái Niệm Về Bản Thân Trong Giai Đoạn Giữa Thời Thơ Ấu (Middle Childhood)
Trong giai đoạn giữa thời thơ ấu (khoảng 7 đến 11 tuổi), trẻ em bắt đầu phát triển ý thức về bản thân xã hội của mình và tìm hiểu cách chúng hòa nhập với những người khác. Họ tham khảo các nhóm xã hội và so sánh xã hội thường xuyên hơn, đồng thời bắt đầu suy nghĩ về cách người khác nhìn nhận họ.
Các đặc điểm khác của khái niệm bản thân của họ ở giai đoạn này bao gồm:
Cân bằng hơn, ít mô tả tất cả hoặc không có gì
Phát triển lý tưởng và bản thân thực sự
Mô tả về bản thân theo năng lực thay vì các hành vi cụ thể
Phát triển ý thức cá nhân về bản thân (Berk, 2004)
Văn hóa bắt đầu đóng một vai trò quan trọng trong giai đoạn này, nhưng chúng ta sẽ nói thêm về điều đó sau.
Sự Phát Triển Của Khái Niệm Về Bản Thân Ở Lứa Tuổi Vị Thành Niên
Tuổi vị thành niên là nơi mà sự phát triển khái niệm về bản thân của một người thực sự bùng nổ. Đây là giai đoạn mà các cá nhân (khoảng 12-18 tuổi) “chơi đùa” với ý thức về bản thân, bao gồm cả thời gian họ thử nghiệm bản sắc của mình, so sánh với người khác và phát triển nền tảng của quan niệm về bản thân - nền tảng có thể theo họ đến cuối cuộc đời họ.
Trong giai đoạn này, thanh thiếu niên dễ có ý thức về bản thân hơn và dễ bị ảnh hưởng bởi bạn bè đồng trang lứa và những thay đổi hóa học xảy ra trong não (Sebastian, Burnett, & Blakemore, 2008). Họ tận hưởng nhiều tự do và độc lập hơn, tham gia vào các hoạt động cạnh tranh ngày càng gay gắt, so sánh bản thân với các đồng nghiệp và có thể coi trọng (thậm chí đánh giá quá cao) quan điểm của người khác (Manning, 2007).
Ở tuổi vị thành niên, có hai yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quan niệm về bản thân và giá trị bản thân:
Sự thành công, thành đạt trong các lĩnh vực mình theo đuổi.
Sự chấp thuận từ những người quan trọng trong cuộc đời. (Manning, 2007).
Khi học sinh có ý thức lành mạnh về giá trị bản thân và lòng tự trọng, các em sẽ góp phần hình thành khái niệm bản thân lớn hơn.
Tham khảo: Sự tự phản ánh (Self-reflection)
10 Ví Dụ Về Khái Niệm Bản Thân
Khái niệm về bản thân hiếm khi hoàn toàn tích cực hoặc tiêu cực, thông thường một người nào đó có thể có cả những quan niệm tích cực và tiêu cực về bản thân trong các lĩnh vực khác nhau.
Một số ví dụ tích cực của khái niệm về bản thân, bao gồm:
Một người tự coi mình là người thông minh.
Một người đàn ông tự coi mình là một thành viên quan trọng trong cộng đồng của mình.
Một người phụ nữ coi mình là một người bạn đời và một người bạn tuyệt vời.
Một người nghĩ về mình như một người nuôi dưỡng và chăm sóc những người khác.
Một người coi mình là một nhân viên chăm chỉ và có năng lực.
Mặt khác, những người này có thể có quan niệm tiêu cực về bản thân như:
Một người thấy mình ngu ngốc và chậm chạp.
Một người đàn ông tự nhận mình là người có thể tiêu xài hoang phí và là gánh nặng cho cộng đồng của mình.
Một người phụ nữ coi mình là một người bạn đời và một người bạn tồi tệ.
Một người nghĩ về mình như một người lạnh lùng và khó gần.
Một người coi mình là một nhân viên lười biếng và bất tài.
Tất cả chúng ta đều có nhiều khái niệm về bản thân nhỏ hoặc theo lĩnh vực cụ thể bao gồm khái niệm về bản thân của chúng ta. Một số có thể tích cực hoặc tiêu cực hơn những cái khác, và mỗi cái là một phần quan trọng tạo nên con người của chúng ta.
Các Nghiên Cứu Về Khái Niệm Về Bản Thân
Khái Niệm Bản Thân Trong Tiếp Thị Và Cách Nó Ảnh Hưởng Đến Hành Vi Của Người Tiêu Dùng
Có lẽ bạn sẽ không ngạc nhiên khi ý tưởng về khái niệm bản thân đã được đưa vào hoạt động tiếp thị - xét cho cùng, các thương hiệu và công ty có thể thu lợi từ việc nhắm vào một số tệp khách hàng mục tiêu mong muốn nhất định. Trên thực tế, khái niệm về bản thân là nền tảng của nền công nghiệp thời trang và chủ nghĩa tiêu dùng.
Khái niệm về bản thân ảnh hưởng đến mong muốn và nhu cầu của chúng ta, đồng thời có thể định hình hành vi của chúng ta. Cho dù điều đó có đúng hay không, chúng ta có xu hướng tin rằng việc mua hàng sẽ giúp thiết lập danh tính của chúng ta. Có một lý do tại sao mọi người mua một số quần áo, xe hơi, v.v. với mẫu mã, kiểu dáng hay màu sắc này mà không phải loại khác.
Gắn với khái niệm về bản thân (self-concept attachment) là thuật ngữ đề cập đến sự gắn bó mà chúng ta hình thành với một sản phẩm vì nó ảnh hưởng đến danh tính. Ví dụ: một người yêu thích chiếc áo khoác Patagonia của họ cũng có thể coi nó như một biểu tượng trạng thái cũng đại diện cho khía cạnh “hướng ngoại” của họ. Do đó, chiếc áo khoác này có một sự gắn bó mạnh mẽ với khái niệm bản thân, bên cạnh mục đích cung cấp sự ấm áp.
Đáng ngạc nhiên là người tiêu dùng trở nên gắn bó hơn với một thương hiệu khi thương hiệu phù hợp với “con người thực tế” của họ hơn là con người lý tưởng của họ (Malär, Krohmer, Hoyer, & Nyffenegger, 2011). Các công ty hiểu điều này và làm việc để (1) hiểu rõ hơn về người tiêu dùng mục tiêu của họ và (2) xây dựng thương hiệu phù hợp với khái niệm bản thân của người tiêu dùng. Công ty càng có thể khiến người tiêu dùng xác định thương hiệu của họ, thì người tiêu dùng sẽ càng mua thương hiệu đó.
Khái Niệm Về Bản Thân Ảnh Hưởng Đến Giao Tiếp Giữa Các Cá Nhân Như Thế Nào?\
Khái niệm về bản thân thúc đẩy động cơ, phương pháp và kinh nghiệm giao tiếp với người khác của chúng ta. Ví dụ, nếu bạn cảm thấy hoặc cho rằng mình luôn đúng (hoặc phải không bao giờ sai), bạn có thể gặp những rào cản trong giao tiếp với người khác khi nảy sinh bất đồng.
Nếu nhu cầu đó đi kèm với việc chấp nhận tính gây hấn, bạn có thể sử dụng thái độ thù địch, quyết đoán và hay tranh luận để tấn công quan niệm về bản thân của những người mà bạn đang tranh luận thay vì trao đổi về lập trường của họ (Infante & Wigley, 1986).
Giao tiếp trên phương tiện truyền thông xã hội cũng là một yếu tố quyết định và là kết quả của khái niệm bản thân của một cá nhân. Sponcil và Gitimu (2012) cho rằng, nhìn chung, một cá nhân càng có nhiều bạn bè trên các trang mạng xã hội thì họ càng cảm thấy tích cực hơn về bản thân nói chung. Ngược lại, sự lo lắng về mạng xã hội và duy trì hình ảnh của một người đặt ra những vấn đề riêng biệt.
Tham khảo: MXH & Sức khỏe tâm thần
Khái Niệm Về Bản Thân Và Thành Tích Học Tập
Khái niệm về bản thân và thành tích học tập cũng là một vòng phản hồi tích cực, khi các hành động tạo ra các hành động và danh tính tương tự để phù hợp.
Trong một nghiên cứu theo chiều dọc, Marsh (1990) đã phát hiện ra rằng những sinh viên có quan niệm về bản thân tích cực hơn trong học tập sẽ đạt được thành công trong học tập cao hơn vào năm sau. Các nghiên cứu sau đó đã xác nhận mối quan hệ giữa hai yếu tố này nhưng chỉ ra rằng thành tích ảnh hưởng đến nhận thức về bản thân nhiều hơn chiều ngược lại (bản thân ảnh hưởng đến thành tích) (Mujs, 2011). Thay vào đó, nghiên cứu của Byrne (1986) đưa ra rằng khái niệm bản thân và khái niệm bản thân (học thuật) có thể được coi là hai cấu trúc riêng biệt, thành tích học tập có thể ảnh hưởng đến khái niệm tổng thể về bản thân của một người, nhưng nó liên quan trực tiếp nhất đến khái niệm về bản thân trong học tập.
Khái Niệm Về Bản Thân Và Phát Triển Nghề Nghiệp
Khái niệm về bản thân phát triển trong suốt cuộc đời và trong bất kỳ sự nghiệp nào. Theo nhà nghiên cứu Donald Super, có năm giai đoạn phát triển cuộc đời và sự nghiệp:
Tăng trưởng (Từ 0 đến 14 tuổi)
Khám phá (Tuổi từ 15 đến 24)
Kiến lập (Tuổi 25 đến 44)
Duy trì (Tuổi 45 đến 64)
Suy giảm (65 tuổi trở lên)
Giai đoạn đầu tiên được đánh dấu bằng sự phát triển khái niệm cơ bản về bản thân của một người. Trong giai đoạn thứ hai, các cá nhân có khả năng thử nghiệm và thử các lớp học, trải nghiệm và công việc mới. Giai đoạn 3 chứng kiến các cá nhân thiết lập sự nghiệp và xây dựng kỹ năng của họ, có khả năng bắt đầu ở vị trí mới bắt đầu. Trong giai đoạn thứ tư, các cá nhân tham gia vào quá trình quản lý và điều chỉnh liên tục đối với cả quan niệm về bản thân và sự nghiệp của họ. Cuối cùng, giai đoạn thứ năm được đặc trưng bởi việc giảm hiệu suất công việc và chuẩn bị cho việc nghỉ hưu - những hoạt động có thể tác động rất lớn đến quan niệm về bản thân của một người (Super, Starishevsky, Matlin, & Jordaan, 1963).
Tất nhiên, mô hình này giả định quyền tiếp cận và đặc quyền bình đẳng khi tham gia lực lượng lao động, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng với thực tế. Ví dụ, không phải tất cả mọi người đều có cơ hội khám phá và thiết lập bản thân dễ dàng như những người khác.
Tuy nhiên, Super cho rằng khái niệm về bản thân thúc đẩy sự phát triển nghề nghiệp và có thể đóng vai trò như một khuôn khổ chung cũng như nguồn cảm hứng cho các nghiên cứu trong tương lai trong lĩnh vực này, bao gồm cả việc khám phá lý thuyết về xã hội và chủng tộc của Rogers về sự tự hiện thực hóa. Nghiên cứu cũng có thể được tiến hành dựa trên công trình của Bandura về năng lực bản thân, vai trò nổi bật và ý tưởng về nhiều bản sắc trong phát triển nghề nghiệp (Betz, 1994).
Văn Hóa Và Khái Niệm Về Bản Thân
Nhiều bậc cha mẹ có thể quan tâm nhiều hơn đến cảm xúc và thỏa mãn mong muốn của con cái họ, trong khi những người khác có thể kiên quyết hơn và kiểm soát hành vi của con mình, lo lắng về nhu cầu của chúng hơn là đáp ứng mong muốn của chúng. Điều này đã khái quát hóa nhưng vẫn cần xem xét kỹ lưỡng về việc văn hóa ảnh hưởng đến khái niệm bản thân. Nghiên cứu cho thấy rằng những người đến từ các nền văn hóa theo chủ nghĩa tập thể hơn sẽ tạo ra nhiều sự tự mô tả theo nhóm hơn và ít tự mô tả theo chủ nghĩa cá nhân hơn so với những người đến từ các nền văn hóa theo chủ nghĩa cá nhân (Bochner, 1994).
Nghiên cứu sâu hơn cũng chỉ ra rằng các nền văn hóa Đông Á ngày càng chấp nhận những niềm tin mâu thuẫn về bản thân; điều này chỉ ra rằng khái niệm về bản thân của một người trong các nền văn hóa này có thể linh hoạt hơn một số nền văn hóa khác (Choi & Choi, 2002).
Tham khảo: Giá trị văn hóa trong tham vấn đa văn hóa
Nguồn: What is Self-Concept Theory? A Psychologist Explains - PositivePsychology